Công Dụng Tuyệt Vời Từ Trái Hồng

hong

CÔNG DỤNG TUYỆT VỜI TỪ TRÁI HỒNG

Hồng là loài cây ăn trái được trồng ở cả đồng bằng và miền núi nước ta. Quả hồng thường được chia thành “hồng ngọt” và “hồng chát” (còn gọi là “hồng ngâm”). Hồng ngọt chín ngay trên cây và tự nhiên hết vị chát, có thể hái về ăn ngay; còn hồng chát phải khử vị chát mới ăn được.
hong

Quả hồng là một thứ trái cây giàu chất dinh dưỡng và hoạt chất sinh học: Trong 100g thịt quả có: 0,7g protein. 0,1g lipid, 11g các chất carbohydrate, 3,1g chất xơ 10mg canxi, 19,1mg phôtpho, 0,2 mg sắt, 49,7 mg iôd, 0,16mg caroten, 0,01 mg vitamin B1, 0,02mg vitamin B2, 0,2mg vitamin PP, 0,2mg vitamin PP, 16mg vitamin C. Các chất carbohydrate trong quả hồng chủ yếu là đường saccharose, glucose và fructose; ngoài ra còn có pectine, tannin và một lượng nhỏ các hoạt chất khác.

Quả hồng và các bộ phận của cây hồng đều là những vị thuốc đã được dùng từ lâu đời trong Đông y học. Hồng được chế biến theo nhiều cách khác nhau, tùy thuộc vào mục đích dùng làm thực phẩm hoặc là làm thuốc: Quả hồng đã chín đem bóc vỏ, moi bỏ hạt, ép bẹp, phơi hoặc sấy nhẹ cho se lại, cho vào hộp đến khi vỏ ngoài có mốc trắng thì lấy ra sấy ở nhiệt độ 50-60oC đến khi khô hẳn, như vậy sẽ được “hồng khô” hay còn gọi là “mứt hồng”, khi chế hồng khô, bên ngoài quả hồng xuất hiện một lớp phấn, trắng như sương; thu gom lại cất riêng sẽ được thứ gọi là “thị sương” vừa là thức ăn vừa là vị thuốc. Trong chữ Hán quả hồng được gọi là “thị tử” (quả thị của ta gọi là “hoàng thị” hoặc “xú thịn”), cho nên các vị thuốc từ cây hồng đều mang chữ thị: “Thị đế” là tai quả hồng; “Thị tất” là nước ép từ quả hồng chưa chín, đem phơi hay sấy khô.

hong kho
Hồng khô

Từ nhiều thế kỷ, người Nhật có tập quán dùng “trà lá hồng” để dưỡng sinh và phòng trị bệnh tật. Theo các nghiên cứu hiện đại, trong lá hồng có nhiều hoạt chất sinh học như các chất flavonoid, tannin, phenol, tinh dầu, betulinic acid, oleanolic acid, ursolic acid, rustin… đặc biệt hàm lượng vitamin C trong lá hồng rất cao (trong 100g lá tươi có tới 704mg). Lá hồng có tác dụng điệt khuẩn, hạ huyết áp, tăng độ bền thành mạch máu, phòng ngừa xơ vữa động mạch; dùng để chống mất ngủ, giảm béo, chữa bệnh tim và động mạch vành tim, tiểu đường… Theo kết quả nghiên cứu của Viện u bướu Trung Quốc (TQ), lá hồng còn có tác dụng phòng chống ung thư: hàng ngày dùng 15g lá hồng uống thay trà có tác dụng trị liệu tương đối tốt đối với bệnh ung thư thực quản. Những năm gần đây TQ đã bắt đầu sản xuất trà lá hồng để xuất khẩu sang Nhật và tiêu thụ trong nước. Tại một số địa phương ở TQ, người ta chế biến trà lá hồng như sau: Từ khoảng trung tuần tháng 7 đến trung tuần tháng 9, hái lá hồng về, buộc thành từng chuỗi, đem nhúng vào nước nóng 85oC trong 15 phút, lấy ra nhúng vào nước lạnh, sau đó đem hong khô trong bóng mát (không phơi nắng), khi lá hồng khô thì vò vụn là được “trà lá hồng”; khi uống có thể hãm với nước sôi như pha trà.

Dưới đây là một số ứng dụng cụ thể từ quả hồng và cây hồng

hong

Tăng huyết áp: Lấy quả hồng tươi ép lấy nước (thị tất), hòa với sữa hoặc nước cơm uống, ngày uống 3 lần mỗi lần nửa chén. Có tác dụng dự phòng “trúng phong” (tai biến mạch máu não) do tăng huyết áp.

Chứng ưa chảy máu (hemophilia – huyết hữu bệnh): Hồng khô 30g, ngó sen 30g, hoa kinh giới 15g đem sắc uống; khi uống hòa thêm 10ml mật ong; mỗi ngày 1 thang, liên tục trong 15 ngày (một liệu trình), nghỉ vài ngày rồi lại uống tiếp liệu trình khác cho tới khi khỏi.

Chữa tiểu tiện ra máu: Lấy thị đế (tai hồng) đem thiêu tồn tính (rang to lửa hoặc đốt cho đến khi mặt ngoài cháy đen như than, nhưng bên trong vẫn giữ nguyên màu), sau đó nghiền mịn, cất đi dùng dần. Ngày uống 2 lần vào lúc đói bụng, mỗi lần 6g, chiêu bột thuốc bằng nước cơm hoặc cháo loãng.

Trĩ nội, đại tiện xuất huyết: Lấy quả hồng khô 12g, sắc uống hoặc nấu cháo ăn ngày 2 lần. Cũng có thể lấy quả hồng khô, rang vàng, tán mịn, uống ngày 2 lần, mỗi lần 6g.

Chữa các loại xuất huyết bên trong (chảy máu dạ dày, ho ra máu do lao, trĩ nội…): Lấy lá hồng rụng mùa thu rửa sạch, phơi khô, nghiền mịn, ngày uống 3 lần, mỗi lần 5g.

Chữa ban xuất huyết do giảm tiểu cầu (thrombocytopen ic purpura, thrombopenic purpura): Cũng lấy lá hồng rụng mùa thu rửa sạch, phơi khô, nghiền mịn, ngày uống 2 lần vào buổi sáng và buổi tối, mỗi lần 3g, liên tục trong 1 tháng.

Chữa nấc: Lấy cuống quả hồng 3-5 cái, thêm 5 lát gừng sắc uống. Nếu thêm khoảng 5-6g đinh hương càng tốt.

Kiết lị, viêm ruột: Lấy hồng khô thái nhỏ, phơi khô, sao vàng rồi tán thành bột mịn để uống dần, ngày uống 3 lần, mỗi lần 5g, chiêu bằng nước đun sôi.

Lưỡi, môi lở loét: Lấy thị sương 10g, bạc hà 5g, hai thứ trộn lẫn với nhau đem nghiền mịn, bôi vào chỗ môi bị lở, rất mau khỏi. Hoặc chỉ cần lấy thị sương ngày bôi 3 lần vào chỗ bị lở, vài ngày cũng sẽ khỏi.

Da bị dị ứng: Quả hồng còn xanh 500g, giã nát, thêm 1500ml nựớc vào trộn đều, phơi nắng 7 ngày, bỏ bã, phơi tiếp trong 3 ngày nữa rồi rót vào lọ dùng dần; hàng ngày lấy bông thấm thuốc bôi vào chỗ da bị dị ứng 3-4 lần.

Một số điều cần chú ý

Quả hồng tuy bổ nhưng không phải ai cũng dùng được. Theo kinh nghiệm của Đông y học, người tỳ vị hư hàn, có đàm thấp bên trong, ỉa chảy, đang bị cảm lạnh không được ăn hồng; sau bữa ăn có món tôm và cua không nên ăn hồng; ăn ngay một lúc quá nhiều hồng, có thể dẫn tới đau trướng bụng, buồn nôn, ỉa chảy…

Đặc biệt, khi đói bụng không nên ăn quá nhiều hồng, nhất là hồng chưa thật chín và ăn cả vỏ. Bởi vì, khi vào dạ dày, một số thành phần trong quả hồng có thể kết hợp với dịch vị tạo thành những chất kết tủa không tan; lúc đầu chỉ nhỏ như hạt mơ dần dần có thể to như nắm tay, gọi là “thị thạch” (sỏi hồng) – bệnh này thường được đề cập đến trong các tài liệu của TQ, ở nước ta ít khi nói tới, tuy nhiên cũng nên biết để tham khảo. Khi bị mắc “thị thạch” thường có các triệu chứng: đau bụng kịch liệt, lợm giọng, buồn nôn, chán ăn; trường hợp nghiêm trọng có thể gây viêm loét dạ dày, thổ huyết, nên sớm đến bệnh viện để chẩn đoán và điều trị sớm.

Sưu tầm