Cây Trâm – Đặc Điểm Cây Trâm

cay tram

CÂY TRÂM

cay tram

Đại cương :

Cây Trâm, tên gọi jamblon hay jamelonier là một cây vùng nhiệt đới, không thay lá thuộc họ Myrtaceae.

Cây Trâm có mức độ tăng trưởng nhanh, có thể đạt đến 30 m chiều cao và có thể sống hơn 100 năm. Tàn lá rậm cho một bóng mát và được trồng chủ yếu có giá trị làm cảnh, trang trí trong vùng. Gổ cứng, không mục. Đây là lý do người ta dùng gổ cây trâm làm đường rầy sắt và cày đặt trong những giếng nước. Đôi khi người ta dùng để chế tạo đồ dùng trong nhà với giá thành rẻ.

Cây Trâm bắt đầu trổ hoa vào tháng 3 đến tháng 4. Những hoa Trâm có mùi thơm và nhỏ, khoảng 5 mm đường kính. Trái phát triển vào tháng 5 hay tháng 6 và hình dáng là những quả nạc, trái Trâm hình bầu dục, màu xanh lúc bắt đầu, trổ sang màu hồng và cuối cùng màu tím đen bóng khi trưởng thành chín mùi. Một biến thể của cây cho ra trái màu trắng.

cay tram

Thực vật và môi trường :

Nguồn gốc : Thực vật kích thước trung bình nguồn gốc Bangladesh, Ấn Độ, Népal, Pakistan và Nam Dương.

Mô tả thực vật :

Cây thân mộc, cao 6 – 20 m. Cành cây màu xám trắng khi khô, hình trụ.

, mọc đối, trên nhánh dài, phiến lá nguyên, rộng, hình ellip, hẹp ở đầu lá, 6 – 12 x 3,5 – 7 cm, dai cứng láng, màu hơi nhạt khi khô, trục màu nâu đen hơi bóng khi khô, 2 mặt với những tuyến nhỏ, gân phụ nhiều,

Phát hoa chùm có hoa hình chùy, hoa mọc trên cành không lá đôi khi mọc trên cuối nhánh, có đỉa mật thơm và quyến rủ ong mật, dạng pyriforme giống hình trái lê 4 mm – 7-8 mm. Đài hoa có thùy 0,3 đến 0,7 mm, cánh hoa 4, màu tím hay tráng sáng, dính nhau, hình bầu dục và hơi tròn khoảng 2,5 mm. Tiểu nhụy 3 – 4 mm. Vòi nhụy dài giống tiểu nhụy.

Trái màu đỏ đen, dạng ellip giống như cái bình lớn khoảng 1 – 2 cm, chứa 1 hạt, ống đài cón lại 1- 1,5 mm, không trưởng thành cùng một lúc trên cành.

Trái là những quả nạc nhỏ có dạng như trái olive, hình bầu dục tròn thon, xanh lúc ban đầu, chuyển sang màu hồng, và cuối cùng màu tím đen và bóng láng khi trưởng thành chín mùi. Một điều, là trái trâm phải tách rời khỏi cuống trái, trái ăn được, nếu không trái sẽ có vị đắng và không tiêu thụ được.

Nạc thịt của trái mát, để lại ở lưỡi và miệng một màu tím đen khi ăn, lý do trong trái có chứa nhiều chất anthocyanine , giàu chất vitamine A và vitamine C.

Ở giữa trái duy nhất một hạt cứng, hình bầu dục, màu nâu nhạt, hạt có thể dùng để tạo giống, thành phần màu xanh lục.

Hoa trổ vào tháng hai-ba hoặc 4 và 5, kết trái tháng 6 và tháng 7.

Cây Trâm mọc ở rừng thứ cấp, trên những vùng cao, vùng đất hoang dưới 100 đến 1200 m.

Ở Trung quốc, Quảng đông, Phúc kiến….. Ấn độ, Nam Dương, Lào, Việt Nam, Mả Lai, Thái Lan ……Úc Đại Lợi.

Bộ phận sử dụng :

Gổ dùng chế biến đồ dùng, trái để ăn….

Thành phần hoá thực vật được thể hiện tóm tắt như sau :

Đặc tính trị liệu :

Hạt trâm còn được dùng trong “ y học thay thế ” khác ( thuật ngữ y học thông thường được mô tả là một phương pháp chăm sóc thay thế còn được gọi là thuốc thay thế, thuốc bổ sung …. ) như y học ayurvédique để kiễm soát :

– bênh tiểu đường chẳng hạn .

Y học Yunani hoặc Unani ( thuốc có nguồn gốc của nó trong giả kim thuật thời trung cổ và các phương pháp trị liệu phương Tây của Hy Lạp cổ đại. Yunani có nghĩa là “Hy Lạp” trong nhiều ngôn ngữ phương Đông (tiếng Ả Rập, Hindustani, Ba Tư, Tamil, vv). Từ này xuất phát từ tiếng Hy Lạp “Ionia,” tên của bờ biển Hy Lạp Tiểu Á hoặc y học Trung quốc cho :

– những bệnh của hệ tiêu hóa.

  • Vỏ cây và hạt được sử dụng như là :

– thuốc trị bệnh tiểu đường,

– dường như có tác dụng giảm nồng độ đường trong một thời gian ngắn.

  • Lá và vỏ cây được sử dụng để :

– kiểm soát huyết áp động mạch,

– và điều trị viêm lợi nướu răng.

  • Trái cây : Trái cây chỉ ăn được khi tách rời khỏi cuống trái, nếu không sẽ có vị đắng và không ăn được.

Nạc thịt trái trâm có vị ngọt, hơi chua và làm giảm sự co thắt.

Nạc của trái chín tươi nhuộm lưỡi một màu tím đen, nhuộm tay, và những quần áo …. bởi vì trái này có chứa chất anthocyanine một chất chống oxy hóa. Ngoài ra trái chứa nhiều vitamine A và vitamine C.

Trong y học cổ truyền :

– nước trái cây được sử dụng để loại bỏ những vấn đề về dạ dày.

Người ta loại bỏ các chất chát bằng cách ngâm trong nước muối trước khi nấu.

Trong y học truyển thống ngày nay, được dùng :

  • Trái cây nguyên :

– chất làm giảm co thắt,

– thuốc dể tiêu stomachique,

– thuốc tống hơi carminative,

– thuốc trị hoại huyết antiscorbutique,

– và thuốc lợi tiểu.

Trái cây nấu đậm đặc, được ăn làm :

– dịu bệnh tiêu chảy cấp tính.

  • Nước ép trái chín hoặc nước nấu sắc trái trâm jambolan có thể dùng chữa trị ở Ấn Độ trong những trường hợp :

– lá lách phù to hypertrophie de la rate,

– bệnh tiêu chảy mãn tính,

– và duy trì nước tiểu rétention d’urine,

Nước trái cây pha loãng với nước dùng :

– như nước súc miệng cho bệnh viêm họng,

– và là một loại nước kem cho bệnh ghẻ chóc da đầu.

  • Hạt trâm dưới dạng lỏng hay bột được dùng uống,

▪ 2 hay 3 lần / ngày cho những người mắc :

– chứng bệnh tiểu đường diabète

– hay chứng đường trong nước tiểu glycosura.

Trong nhiều trường hợp dùng, mức đường trong máu giảm rất nhanh và không có hiệu quả xấu.

Lá trâm ngâm trong rượu, được quy định chữa bệnh tiểu đường.

Nước ép của lá có hiệu quả trong chữa trị bệnh lỵ dysenterie.

Dùng riêng hay phối hợp với những nước ép khác như soài ….

Những lá jambolan có thể sử dụng dưới dạng thuốc dán cataplasme lên chổ đau trên da.

Lá, thân, nụ hoa, hoa nở và những vỏ có hoạt tính như chất kháng sinh.

► Nấu sắc vỏ cây được dùng trong cơ thể :

– chống bệnh kiết lỵ,

– chứng khó tiêu,

– chứng bệnh tiêu chảy.

– và được dùng như thuốc thục bôm rữa ruột.

Vỏ rể cây cũng được dùng trong cơ thể như trên.

► Nấu sắc vỏ được dùng trong trường hợp :

– suyễn,

– viêm phế quản,

– và dùng để súc miệng gargariser,

Hay dùng như rữa miệng có hiệu quả giảm sự co thắc trên :

– những chứng lơét miệng,

– lợi răng xốp,

– và viêm miệng.

► Tro của vỏ, pha trộn với nước được chữa trị :

– sự lan rộng trên những bộ phận viêm sưng,

– hay trộn với dầu đắp vào những chổ mụn nước.

Chủ trị : indications

  • Lá chủ trị kháng khuẩn và được sử dụng để củng cố nướu răng.
  • Trái cây và hạt hương vị nhọt, chát, chua dùng làm thuốc bổ và tính hàn.

Được sử dụng trong trường hợp bệnh tiểu đường, tiêu chảy và nấm ngoài da.

  • Vỏ cây là chất :

– giảm sự co thắt, ngọt hơi chua,

– tác dụng lợi tiểu,

– giúp tiêu hóa,

– và trục giun sán.

  • Ngoài ra lá trâm còn dùng dưới dạng thuốc dán đắp trên những chứng bệnh ngoài da.
  • Nước sắc của trái trâm dùng trong trường hợp :

– trương nở lá lách rat.

cay tram

Hiệu quả xấu và rủi ro :

Trong phương pháp trị liệu hiện nay, chất tanin không còn được công nhận để điều trị da bị phỏng bởi vì tanin được hấp thụ và có thể nguyên nhân gây ra bệnh ung thư.

Dùng uống quá nhiều, những sản phẩm thực vật có chứa nhiều chất tanin, cũng có thể nguy hiểm cho sức khỏe.

Sưu Tầm