Categories: Tin Tức

Cây Nắp Ấm – N.eymae

CÂY NẮP ẤM – N.EYMAE

 

N. eymae /ˈeɪmaɪ/ là một loài nắp ấm nhiệt đới đặc hữu của vùng Sulawesi, phân bố ở độ cao 1000~2000m trên mực nước biển. Loài này có quan hệ rất gần gũi với N.maxima, chỉ khác là nó có ấm cao hình chai rượu.
Tên chính thức “eymae” là để vinh danh Pierre Joseph Eyma, một nhà thực vật học Hà Lan làm việc cho Dutch East Indies và cũng là người đầu tiên khám phá ra loài này.

Lịch sử:

N. eymae được phát hiện ở trung tâm Sulawesi bởi nhà thực vật học Hà Lan Pierre Joseph Eyma vào năm 1938.
N.eymae được mô tả một cách chính thức bởi Shigeo Kurata một số báo năm 1984 Journal of Insectivorous Plant Society. Mẫu gốc, chỉ định Kurata,Atsumi&Komatsu102a, được tìm thấy ở mũi bắc của Mount Lumut ở trung tâm Sulawesi, độ cao 1850m vào ngày 5 tháng 11 năm 1983..
Hầ hết các tác giả đã nhìn nhận N.eymae như một giống đặc biệt và nó đã được đề cập đến trong đa số những chuyên khảo, trong đó có cuốn “A skeletal revision of Nepenthes (Nepenthaceae) (1997) và cuốn “Nepenthaceae” (2001) của Matthew Jebb and Martin Cheek và cuốn “Pitcher Plants of the Old World” (2009) của Stewart McPherson. Tuy nhiên, một số tác giả cảm thấy nghi ngờ về sự đặc biệt của nó với N.maxima.

Mô tả:

N.eymae là một loài cây leo có thể mọc đến độ dài 8m. Thân chính, có thể phân nhánh, có hai sóng và có đường kính 8mm. Những đốt có thể dài đến 6cm. Lộc non ở nách lá, nằm phía trên nách lá từ 3~10mm, hình gai nhọn và dài 10mm (có trường hợp hiếm dài 20mm), rộng 1.5mm.

 

Lá thì dai và có cuống lá. Phiến lá hình chữ nhật hoặc ellipse, có thể có độ dài đạt 35cm và rộng 12cm. Đỉnh lá tròn hoặc tù và không thuôn. Phần đuôi lá thì tù và ôm sát lại tạo thành cuống lá. Cống lá thì trị và đôi khi có cánh, cánh có độ rộng 4mm. Cuống có thể dài 18cm ở những cây vàng úa, thường dài 10cm ở những cây khác. Cuống lá ôm sát vào thân  và chạy dài xuống tạo ra hai đường lồi lên xống phía dưới. Gân dọc và gân lông chim không dễ thấy.

 

Ấm thấp thường có hình trứng nhưng cũng có thể hình trụ. Chúng hơi thắt lại ngay bên dưới lỗ miệng. Ấm thấp hoàn chỉnh là cái bẫy to nhất mà cây có thể làm ra, cao đến 24cm và rộng 16cm. Phía trước bụng ấm có đôi cánh rộng dưới 2cm, những tua dài 8mm. Phần dưới của ấm dài và tạo thành cổ. Miệng ấm hình trứng và lõm xuống và có chỗ giao nhau chếch lên. Môi ấm trơn bóng, hình trụ. Nó có phần trước rộng 2cm, càng ngày càng mở rộng về phía bên và phần sau, ở phần sa nó có thể có độ rộng tối đa là trên 5cm. Mép ngoài của môi ngoằn ngoèo lượn sóng, trong khi mé bên trong thì cong vào, nhất về phần lưng c3a ấm. Hai thùy của môi được tách ra tạo thành khoảng trống vài milimet dưới nắp. Gân ở môi phát triển mạnh, nhô lên 2mm. Nắp thì có hình trứng hơi tam giác, dài 5cm và trộng 3cm. Nó có đỉnh mũi nhọn, phần đuôi cụt và có tai. Nắp được lưu ý bởi mép khác thường.

 

Ấm cao hình phễu hẹp ở nửa hoặc ba phần tư dưới, đột ngột mở rộng phần trên và trở thành hình phễu rộng. Phần trên thường co lại ngay bên dưới miệng ấm. Ấm trên nhỏ hơn ấm dưới thấy rõ, chỉ có thể cao 15cm và rộng 8cm. Một đặc điểm nữa là phần ống hẹp tiếp nối chày từ phần đáy cong của ấm tới cuống ấm dài vài centimetre. Đặc điểm này cũng được tìm thấy ở N. flava, N.fusca, N.jamban, N.ovata và N.vogelii. Cánh thường tiêu giảm trở thành đường gân, mặc dù một vài mẫu vật cũng không còn dấu tích của cánh. Những đường gân này chạy song song với nhau ở phần dưới của ấm, và trở nên chệch hướng ở phần trê. Môi bằng phẳng, bóng và rộng 1.5cm, sải môi trở nên xấp xỉ bằng nhau hoặc hơi rộng hơn ở phần đuôi. Gân trên môi bị tiêu giảm đáng kể nhưng vẫn còn thấy được, cao 0.5mm và cách nhau 0.5mm. Phần dưới của ấm thì dài ra trở thành cái cổ dài 3cm có thể thẳng đứng hoặc nghiêng dốc. Phần mép môi bên trong không có răng, phần mé ngoài thì lượn sóng ở đuôi cổ. Nắp hình mác và rất hẹp, dài 8cm, có phần đáy rộnng 2.5cm và phần giữa rộng 1cm. Chúng có những thùy tròn ở dưới và có đỉnh tròn. Đỉnh có thể vễnh lên.

 

Lớp lông có màu cam nhạt hoặc nâu hơi đỏ hiện diện trên tất cả các phần đã trưởng thành của c6y, bao gồm thân, mặt dưới lá và bề mặt lá. Lớp lông này được cấu tạo bởi lông mọc thành búi dài 0.05mm và lông đơn dài 0.8mm (lông ở cuống ấm, gân chính, nắp và gai thì dài và dày hơn, đạt 2mm). Nhưng lớp lông có thể thay đổi được và có thể bị tiêu giảm đến nổi không thể nhìn thấy được ở một vài quần thể.
Cành và gân chính mà xanh lục hơi vàng, và phiến lá màu xanh đậm. Cuống ấm màu t72 vàng đến xanh, hoặc hơi đỏ. Ở ấm dưới, ấm có màu trắng, xanh, vàng, nâu hoặc đỏ, và thường có đốm đỏ. Ấm có lớp lông thấy rõ. Mặt trong có màu vàng hoặc màu xanh olive tới màu nâu và có nhiều đốm màu đỏ, nâu hoặc tía. Môi ấm màu sậm, màu nâu đỏ đến đen. Chúng có những sọc có màu từ vàng tới đen. Nắp thì từ xanh tới nâu và thường lốm đốm những những đốm đen hoặc đỏ ở mặt dưới. Ấm cao có màu vàng, đôi khi có đốm đỏ hoặc tía ở mặt trong. Môi có thể màu cam đến đỏ, phần trong đậm hơn phần ngoài hoặc có thể có sọc đỏ, nâu, tía hoặc đen.

Sinh thái học:
N.eymae đặc hữu ở đảo Sulawesi ở Indonesia. Nó có ở những tỉnh ở trung tâm Sulawesi (bao gồm Đông Peninsula) và Tây Sulawesi. Nhiều mỏm núi ở vùng này ít được biết đến và có nhiều quần thể N.eymae chưa được khám phá đến. Loài có phân bố rộng theo độ cao từ 1000m tới 2000m, thường ở 1400m.

N.eymae mọc bò trên mặt đất nhưng cũng có thể là một loài biểu sinh ở độ cao cao hơn. Chúng được ghi chép rằng rất đa dạng môi trường sống, bao gồm rừng cây thạch nam, bờ sông, ở những nơi phơi ra như những dốc và mặt đất.
Trạng thái cần bảo tồn của N.eymae được sắp xếp là Vulerable.
N. eymae sản sinh ra dịch ấm rất đặc sệt bao phủ bề mặt trong của ấm và được bao bởi màng mỏng. Đặc điểm này cũng thấy ở cây chăm sóc, và nổi bật nhất là ở ấm cao, là loại ấm cần phải chiến thắng những tác động của gió. Những ấm có chức năng như giấy bẫy rồi, với thành bên trong rất dính có thể bẫy được những côn trùng lượn lờ bên trên mặt chất dịch. Sau đó, những con mồi trượt xuống đáy ấm và được tiêu hóa. Với cách bắt mồi này, ấm thấp bắt mồi thành công hơn ấm trên.
Những loài liên quan:

 

 

 

N.eymae thì có mối quan hệ bạn bè với một loài có nhiều dạng, N.maxima trải rộng ngang Sulawesi, New Guinea và đảo Maluku. N.eymae khác loài kia ở chỗ ấm cao nhỏ hơn và không cánh, ấm thấp hình trứng, nắp hình lưỡi mác. Trog khi đó, N.maxima tạo ra ấm cao hình phễu hoàn toàn, không bị thắt (không có hình chai rượu) như là N.eymae và có thể có hoặc không cánh.
N. fusca của Borneo cũng có thể tạo ra ấm cao tương tự N.eymae, chỉ khác ở chỗ là ấm thấp của nó thì hẹp hơn và hình trụ. Ấm thấp của N.eymae có thể dễ dàng bị nhầm lẫn với một loài đặc hữu của Borneo khác, N.veitchii, tuy nhiên những loài này ít có điểm chung, nhất là ở ấm cao.

Nguồn Internet

Recent Posts

Lợi Ích Của Cây Tràm Bông Vàng, Những Vấn Đề Khuyến Nghị

Lợi ích của cây tràm bông vàng Cây tràm bông vàng giúp cải thiện môi…

Các Giống Cây Tràm Bông Vàng Và Phương Pháp Nhân Giống Cây Tràm Bông Vàng

Các giống cây tràm bông vàng phổ biến Cây tràm bông vàng có nhiều giống…

Ứng Dụng Của Cây Tràm Bông Vàng

Cây tràm bông vàng trong cảnh quan cây cảnh, nghệ thuật và trang trí Ứng…

Cách Trồng, Chăm Sóc Và Phòng Trừ Sâu Bệnh Cho Cây Tràm Bông vàng

Chuẩn bị đất và trồng cây tràm bông vàng Lựa chọn đất trồng cây tràm…

Cách Trồng Và Chăm Sóc Cây Hoa Kèn Hồng (Chuông Hồng)

Bạn đã từng nghe về cây hoa kèn hồng (chuông hồng) - loại cây cảnh…

Ý Nghĩa Của Cây Hoa Kèn Hồng (Chuông Hồng)

Cây hoa kèn hồng (chuông hồng) không chỉ làm đẹp cảnh quan xung quanh, mà…